Bangana behri és una espècie de peix de la família dels ciprínids i de l'ordre dels cipriniformes.
Els mascles poden assolir els 60 cm de longitud total.[3][4]
Es troba a les conques dels rius Mekong,[5] Chao Phraya i Maeklong.[6][3]
Bangana behri, in Kambodscha Trey Pava Mook Pee (ត្រីប៉ាវ៉ាមុខពីរ), in Laos Pa Va Ho Kham oder Pa Wa Nah Nuk und in Thailand Pla Na Nor ปลาหน้านอ oder ปลางา bezeichnet, ist ein mittelgroßer Karpfenfisch aus Südostasien.[1]
Bangana behri zeichnet sich durch seinen kräftigen gedrungenen Körper und seinen hornartigen Höckler auf der Kopfpartie aus. Auffallend ist auch sein starker Laichausschlag an der Kopfpartie. Die Fische sind grauschwarz gefärbt. Bangana behri besitzt folgende Flossenformel: Dorsale 12–13, Anale 12–13.[1] Die Fische werden normalerweise bis 60 Zentimeter lang.[1]
Bangana behri lebt in Flüssen Kambodschas, Laos, Thailands und Vietnams[1], überwiegend in Staubecken des oberen Mekongs. Dort hält er sich während der Trockenzeit bevorzugt in den felsigen Hauptstrom des Flusses auf und wandert während des Hochwassers in die Nebenflüsse ein.[1] Ideale Standorte sind Stromschnellen aber auch langsamfließende, tiefe Staubereiche. In stehenden Gewässern wie Teichen kommt er normalerweise nicht vor.[1]
Bangana behri ist herbivor von Algen, Phytoplankton und Periphyton. Sein Wanderverhalten wurde gut untersucht. Zu Beginn der Regenzeit im Mai bis Juni wandert Bangana behri bei den Khone Fällen ungefähr auf der Höhe der kambodschanischen Ortschaften Stung Treng, Sambor und Kratie flussaufwärts bis nach Chiang Khong im nördlichen Thailand. Ausgelöst wird das Wanderverhalten durch den Anstieg des Wasserpegels und die Eintrübung des Wassers von klar bis rot-braun durch eingeschwemmte Sedimente. Auf seinen Wanderungen flussaufwärts wird der Jungle Labeo häufig von anderen Fischarten wie Labeo cf. pierrei, Cirrhinus microlepis, Labeo chrysophekadion, Cyclocheilichthys enoplus und Yasuhikotakia modesta begleitet.[1] Insgesamt zeigt die Fischart zwei unterschiedliche Wanderzüge: eine Wanderung der Jungfische während der Trockenzeit und zu Beginn der Regenzeit eine Laichwanderung der geschlechtsreifen, adulten Tiere.[1]
Bangana behri ist ein Speisefisch, welcher frisch vermarktet wird.[1]
Bangana behri, in Kambodscha Trey Pava Mook Pee (ត្រីប៉ាវ៉ាមុខពីរ), in Laos Pa Va Ho Kham oder Pa Wa Nah Nuk und in Thailand Pla Na Nor ปลาหน้านอ oder ปลางา bezeichnet, ist ein mittelgroßer Karpfenfisch aus Südostasien.
Bangana behri is a species of cyprinid fish endemic the Mekong basin in Cambodia, Thailand, Laos, and China.[2]
Bangana behri is a species of cyprinid fish endemic the Mekong basin in Cambodia, Thailand, Laos, and China.
Bangana behri es una especie de peces de la familia de los Cyprinidae en el orden de los Cypriniformes.
Los machos pueden llegar alcanzar los cm de longitud total.[1][2]
Es un pez de agua dulce.
Se encuentran en las cuencas de los ríos Mekong, Chao Phraya y Maeklong.
Bangana behri es una especie de peces de la familia de los Cyprinidae en el orden de los Cypriniformes.
Bangana behri Bangana generoko animalia da. Arrainen barruko Actinopterygii klasean sailkatzen da, Cyprinidae familian.
Bangana behri Bangana generoko animalia da. Arrainen barruko Actinopterygii klasean sailkatzen da, Cyprinidae familian.
Bangana behri is een straalvinnige vissensoort uit de familie van de eigenlijke karpers (Cyprinidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1937 door Fowler.
Bronnen, noten en/of referentiesCá mõm trâu (danh pháp khoa học: Bangana behri) là một loài cá trong chi Bangana thuộc họ Cá chép (Cyprinidae)[2].
Là loài cá nước ngọt sống nổi và đáy, di cư trong vùng nước ngọt. Có chiều dài tối đa tới 60 cm. Tổng số các tia mềm vây lưng 12-13. Có khía sâu chạy ngang đỉnh mõm; với 12-13 tia vây lưng phân nhánh (ở các loài khác trong chi Bangana từ sông Mê Kông là 10-11)[2].
Là loài cá của khu vực Đông Nam Á, được ghi nhận trong lưu vực sông Mê Kông phía bắc Kratie, bao gồm cả các chi lưu của con sông này, như vâtyj có mặt tại Lào, Campuchia, Việt Nam (sông Sêrêpôk)[1]. Cũng có các thông báo ghi nhận có mặt trong lưu vực các sông Chao Phraya và Mae Klong (Thái Lan)[2], cũng như tại Vân Nam, Trung Quốc[1].
Xuất hiện trong các đoạn sông vùng cao của sông Mê Kông. Sinh sống trong các khúc sông nhiều đá của dòng chính sông Mê Kông trong mùa khô và di chuyển vào các sông suối chi lưu trong mùa nước lớn. Được tìm thấy trong các đoạn nước nông hoặc các đoạn sâu chảy chậm. Là loài cá ăn cỏ, với nguồn thức ăn chủ yếu là tảo bám trên đá[1], thực vật phiêu sinh và sinh vật bám quanh rễ dưới mặt nước[2].
Tại Stung Treng phía dưới thác Khone, loài này di cư ngược dòng vào đầu mùa mưa khoảng tháng 5-6 và xuôi dòng trong mùa khô từ tháng 11 tới tháng 2 năm sau. Trong khi đó, tại Sambor và Kratie cũng như ở phía nam thác Khone, nó di chuyển xuôi dòng khi bắt đầu mùa mưa và ngược dòng trong mùa khô. Nguyên nhân cho sự di chuyển như vậy dường như là do sự hiện diện của hệ thống chi lưu quan trọng là các sông Sekong - Sesan - Srepok.
Các ngư dân thông báo rằng loài cá này di cư từ hệ thống chi lưu này vào sông Mê Kông trong mùa nước cạn và di cư ngược dòng vào các chi lưu trong mùa mưa, có lẽ là để đẻ trứng[2]. Phía trên thác Khone, loài cá này bắt đầu di cư ngược dòng trong mùa khô (tháng 2-5) và tiếp tục tới khi bắt đầu mùa mưa. Chuyển động này trên thực tế có thể là hai cuộc di cư tách biệt: di cư phi sinh sản trong mùa khô của cá nhỏ hơn và di cư đầu mùa mưa của cá lớn hơn trong điều kiện sinh sản.
Các cuộc di cư ngược dòng từ thác Khone đều hướng tới Chiang Khong ở miền bắc Thái Lan diễn ra khi mực nước lên cao và khi có sự thay đổi màu nước từ trong sang nâu đỏ[2]. Chúng di cư ngược dòng thành đàn cùng các loài cá khác trong họ Cyprinidae như Labeo cf. pierrei, Cirrhinus microlepis, Labeo chrysophekadion, Cyclocheilichthys enoplos cũng như cùng loài cá heo vạch Yasuhikotakia modesta[2].
Được gọi là cá mõm trâu do mõm cá nhìn rất giống mõm trâu, bò. Thức ăn chủ yếu của cá mõm trâu là rong rêu, thường sống ở các dòng sông chảy xiết, trên các đoạn thác, ghềnh. Con lớn có thể nặng tới trên 50 kg. Loài cá này không có xương dăm, chất lượng thịt đặc biệt thơm ngon nên được coi như đặc sản trong hàng cá nước ngọt, xếp trên cả cá lăng[cần dẫn nguồn]. Cá mõm trâu là một trong những loài cá đặc sản của sông Serepôk[cần dẫn nguồn]. Cá mõm trâu nấu lá giang là món ăn đặc sản của Đắk Lắk. Tuy nhiên, do tình trạng khai thác quá mức và thiếu tính bền vững, hiện tại rất hiếm gặp loại cá này. Tại Đắk Lắk, nhiều người cho rằng đây là loài cá anh vũ tiến vua nổi tiếng sống ở vùng sông Đà.
Cá mõm trâu (danh pháp khoa học: Bangana behri) là một loài cá trong chi Bangana thuộc họ Cá chép (Cyprinidae).